Từ Lương Xâm là một trong 3 “linh từ” linh thiêng của quận Hải an. Từ thờ Đức Vương Ngô Quyền – người có chiến công oanh liệt lãnh đạo quân ta chiến thắng quân xâm lược Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938.
Tọa lạc tại phường Nam Hải, quận Hải An, thành phố Hải Phòng, khu vực này xưa là tổng Lương Xâm, huyện An Dương, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương. Ngôi đền này được vinh danh là Từ Cả, đứng đầu trong hệ thống các đền, miếu thờ Ngô Quyền tại khu vực cửa sông Bạch Đằng.
Theo tài liệu “Tiền Ngô Vương thiên tử ngọc phả lục”, được biên soạn bởi Đông Các đại học sĩ Nguyễn Bính dưới triều đại nhà Lê vào năm 938, trong chiến dịch chuẩn bị đối đầu với quân Nam Hán, Ngô Quyền nhận thấy tầm quan trọng chiến lược của làng Dầm (nay là Lương Xâm, trước đây gọi là Lãng Thâm). Tại đây, ông cho xây dựng một đại bản doanh quân sự, đồng thời chỉ đạo xây dựng các công sự phòng thủ. Đồn chỉ huy chính được đặt tại làng Cấm, khu vực hiện nay là trụ sở ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng.
Sau khi đánh bại quân Nam Hán, Ngô Quyền đã chấm dứt hơn một nghìn năm Bắc thuộc, lên ngôi vua và sáng lập nhà Ngô, trị vì từ năm 939 đến 944.
Sau khi Ngô Quyền qua đời, người dân địa phương đã góp tiền, công sức để xây dựng linh từ thờ phụng, giữ gìn hương khói quanh năm ngay trên khu đất nơi ông từng đắp thành vành kiệu, dựng trại quân doanh trong chiến dịch Bạch Đằng năm xưa.
Di tích Từ Lương Xâm có diện tích rộng hơn 36.000 m2, bao gồm các hạng mục như Nghi môn, Tiền tế, Thiêu hương, Giải vũ, Từ chính, tượng đài và các công trình phụ trợ, tạo thành một không gian liên kết, hài hòa, khép kín.
Nghi môn của đền thờ Ngô Quyền được xây dựng với hai lớp nội và ngoại, làm bằng gạch và thiết kế ba cửa. Chính môn là không gian rộng lớn giữa hai cột đồng trụ cao vút như vươn lên với bầu trời. Đỉnh của nghi môn ngoại được trang trí bằng đôi nghê theo thế chầu vào cổng, còn đỉnh của cột nghi môn nội lại mang hình ảnh tứ phượng, biểu tượng của sự may mắn và thịnh vượng.
Qua Nghi môn ngoại là hai giếng nhỏ, gọi là mắt rồng, luôn có nước ngọt quanh năm. Truyền thuyết kể lại rằng khi Ngô Quyền đóng quân tại đây, ông đã sai lính đào hai giếng để lấy nước sinh hoạt. Tiếp tục qua Nghi môn nội, du khách sẽ đến một sân rộng, được lát gạch Bát Tràng tạo không gian thoáng đãng và trang nghiêm.
Tòa Tiền tế được xây theo hình chữ nhật, gồm 5 gian liên tiếp, nâng đỡ bởi 24 cột gỗ lim đặt trên những tảng đá lớn có niên đại từ thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 20. Mái nhà được trang trí công phu với hình ảnh rồng, phượng uốn lượn, biểu trưng cho sức mạnh và sự thịnh vượng. Các đầu mái được trang trí hình nghê, loài vật linh thiêng trong văn hóa Việt. Nền nhà cũng được lát gạch Bát Tràng, tạo cảm giác trang trọng và ấm cúng.
Đặc biệt, những hình rồng chạm khắc trên mái nhà thể hiện sự khác biệt rõ rệt giữa hai thời kỳ nghệ thuật. Những con rồng ở thế kỷ 18 có hình dáng uy nghiêm, đôi mắt to và sừng nhọn, trong khi những con rồng thế kỷ 19 lại mang nét mềm mại và uyển chuyển hơn.
Tòa Từ chính, nơi dâng lễ bao gồm 5 gian nhà được nâng cao so với phần sân trước, tạo sự trang trọng cho không gian thờ tự. Mái nhà được thiết kế cầu kỳ với nhiều lớp, trang trí tinh xảo bằng hình rồng, phượng. Các cột nhà làm bằng gỗ lim vững chắc, đặt trên chân tảng đá kiên cố góp phần tạo nên vẻ đẹp bền vững cho công trình.
Phía sau Từ chính, khu vực chuôi vồ là nơi đặt bàn thờ Ngô Vương, bao gồm ba gian nhà. Mái nhà tại đây cũng được trang trí công phu với hình rồng, phượng và hoa lá. Đặc biệt, gian giữa có một cửa lớn với hình ảnh hai con rồng chầu mặt trời, tượng trưng cho sức mạnh và quyền uy của Ngô Vương.
Hai tòa Giải vũ nằm hai bên, nối liền Từ chính và Tiền tế, đóng vai trò như hành lang, tạo sự thông thoáng và không gian mở cho khu di tích. Tòa Giải vũ bên phải hiện lưu giữ ba chiếc cọc Bạch Đằng, trong khi tòa Giải vũ bên trái có một chiếc thuyền rồng lớn, biểu tượng cho chiến thắng trên sông Bạch Đằng năm xưa.
Từ Lương Xâm hiện lưu giữ 25 đạo sắc chính và hơn 20 sắc phong sao lại từ năm 1522 đến 1924, của các triều đại Lê sơ, Mạc, Lê Trung Hưng, Tây Sơn và Nguyễn. Trong các sắc phong này, nhiều triều đại đã suy tôn Ngô Quyền với các danh hiệu như “Thượng đẳng tối linh đại vương”, “Ngô Vương Thiên tử” và các mỹ tự khác. Bên cạnh đó, di tích còn bảo tồn nhiều cổ vật có giá trị, từ thế kỷ 17 đến đầu thế kỷ 20, bao gồm sắc phong, bia đá, thần tượng, long ngai, bài vị, bát hương,…
Từ năm 1986, Từ Lương Xâm đã được công nhận là di tích lịch sử – kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia. Đến năm 2022, lễ hội Từ Lương Xâm được vinh danh là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Vào tháng 1/2025, Từ Lương Xâm chính thức được công nhận là di tích quốc gia đặc biệt.