Nhà hát Tuồng Việt Nam mang đến những trích đoạn tuồng đặc sắc trong chương trình giới thiệu nghệ thuật tuồng đến giới trẻ. Ảnh: Báo Nhân Dân
Nghệ thuật truyền thống là tiếng vọng của quá khứ, lưu giữ tâm hồn dân tộc qua từng giai điệu, nét vẽ, vũ điệu. Giữ gìn và phát huy di sản này không chỉ là trách nhiệm, mà còn là cách thổi hồn cho hiện tại, tạo động lực cho sự sáng tạo và phát triển. Trong dòng chảy hội nhập, nghệ thuật truyền thống cần được khơi nguồn sức sống mới để vừa trường tồn với thời gian, vừa tỏa sáng trong đời sống hiện đại.
Nghệ thuật truyền thống Việt Nam là kho báu văn hóa vô giá, kết tinh bản sắc dân tộc qua nhiều loại hình đa dạng như sân khấu (tuồng, chèo, cải lương, múa rối…), âm nhạc (ca trù, quan họ, hát xoan, xẩm, hát văn, bài chòi…), múa (dân gian, cung đình…) và mỹ thuật (tranh khắc gỗ dân gian, điêu khắc đình làng…). Mỗi loại hình mang trong mình những giá trị độc đáo, phản chiếu tinh thần và chiều sâu tâm hồn Việt.
Không chỉ là ký ức của quá khứ, nghệ thuật truyền thống còn là dòng chảy sống động trong đời sống đương đại, vừa nuôi dưỡng tâm hồn, vừa góp phần phát triển kinh tế – xã hội. Những sản phẩm như lụa Vạn Phúc, tranh Đông Hồ, gốm Bát Tràng hay các chương trình sân khấu dân tộc vẫn vững vàng khẳng định giá trị, tạo việc làm, nguồn thu nhập và sức hút văn hóa.
Đặc biệt, nghệ thuật truyền thống không ngừng lan tỏa cảm hứng, trở thành nền tảng cho những sáng tạo mới trong nghệ thuật đương đại, đồng thời góp phần thúc đẩy du lịch và công nghiệp văn hóa, đưa bản sắc Việt vươn xa trong dòng chảy hội nhập toàn cầu.
Tuy nhiên, trong dòng chảy sôi động của kinh tế thị trường và sự bùng nổ của các loại hình giải trí hiện đại, nghệ thuật truyền thống đang đối mặt với những thách thức không nhỏ. Áp lực thương mại hóa khiến giá trị nguyên bản dần mai một, sân khấu dân tộc vắng bóng khán giả, nhiều làng nghề truyền thống đứng trước nguy cơ thất truyền, trong khi nghệ sĩ, nghệ nhân dần rời bỏ nghề vì thu nhập bấp bênh.
Tiến sĩ Nguyễn Thị Hồng Nhung (Viện Văn hóa, Nghệ thuật, Thể thao và Du lịch Việt Nam) nhấn mạnh, trong bối cảnh hội nhập quốc tế, việc bảo tồn và phát huy nghệ thuật truyền thống trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Bà cho rằng nghệ sĩ và nghệ nhân là linh hồn của di sản văn hóa, song đội ngũ này ngày càng khan hiếm, không chỉ về số lượng mà còn về chất lượng, đặt ra bài toán nan giải cho sự kế thừa và phát triển.
Để giải quyết vấn đề này, cần chú trọng bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực, đảm bảo sự kế thừa bền vững cho nghệ thuật truyền thống. Việc hoàn thiện thể chế, chính sách và đầu tư kinh phí đào tạo là điều cấp thiết, đồng thời cần có chế độ đãi ngộ xứng đáng để nghệ nhân, nghệ sĩ yên tâm cống hiến. Song song đó, các hình thức đào tạo cũng cần được đa dạng hóa, kết hợp giữa giáo dục chính quy và truyền nghề truyền khẩu, khuyến khích việc thành lập các câu lạc bộ địa phương và mô hình gia đình nghệ thuật để tạo không gian nuôi dưỡng, trao truyền kỹ năng cho thế hệ trẻ.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, việc đẩy mạnh giao lưu và hợp tác quốc tế được xem là “cơ hội vàng” để bảo tồn và phát huy nghệ thuật truyền thống Việt Nam. Phó Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Hoài Sơn, Ủy viên chuyên trách Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội, nhấn mạnh rằng hợp tác quốc tế không chỉ giúp ngăn ngừa nguy cơ mai một và đồng hóa mà còn thúc đẩy sự hiểu biết chung về giá trị của nghệ thuật truyền thống như một tài sản của nhân loại. Điều này khuyến khích việc chia sẻ tri thức và xây dựng các mô hình bảo tồn hiệu quả.
Hợp tác quốc tế không chỉ góp phần bảo tồn nghệ thuật truyền thống mà còn giúp Việt Nam khẳng định vị thế trên bản đồ văn hóa thế giới. Việc xây dựng chính sách pháp luật hiệu quả, huy động nguồn lực đa dạng, thúc đẩy hợp tác công – tư và kết nối với cộng đồng nghệ thuật quốc tế sẽ tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững của di sản văn hóa dân tộc. Những thành tựu như việc nhã nhạc cung đình Huế và hát xoan Phú Thọ được UNESCO vinh danh là minh chứng rõ nét cho sức mạnh của sự giao thoa và hợp tác toàn cầu.
Thạc sĩ Nguyễn Thị Thu Trang, Viện Văn hóa, Nghệ thuật, Thể thao và Du lịch Việt Nam nhận định rằng, du lịch văn hóa là hướng đi đầy triển vọng để khơi dậy và phát triển nghệ thuật truyền thống. Sự kết hợp này không chỉ góp phần bảo tồn những giá trị văn hóa quý báu, mà còn thúc đẩy kinh tế – xã hội, mang lại lợi ích thiết thực cho cộng đồng nghệ nhân và những người làm nghệ thuật. Để hiện thực hóa tiềm năng này, cần xây dựng chiến lược bảo tồn gắn liền với phát triển du lịch, tập trung vào việc phân loại, đánh giá các loại hình nghệ thuật truyền thống có sức hút với du khách và thiết kế những chương trình du lịch văn hóa chuyên sâu.
Trong bối cảnh cuộc sống và nhu cầu tiếp cận văn hóa của công chúng liên tục thay đổi, nhiều chuyên gia cho rằng nghệ thuật truyền thống cần “gặp gỡ” với những yếu tố đương đại để tăng khả năng tiếp cận thế hệ trẻ. Việc tạo ra những sản phẩm mới dựa trên nền tảng nghệ thuật truyền thống không chỉ mang đến sắc diện mới mà còn kéo dài sức sống và gia tăng giá trị kinh tế.
Mới đây, Trung tâm Bảo tồn Nghệ thuật Biểu diễn Truyền thống Việt Nam ra đời dưới sự bảo trợ của Hội Bảo vệ Quyền của Nghệ sĩ Biểu diễn Âm nhạc Việt Nam, mang theo sứ mệnh gìn giữ và lan tỏa những tinh hoa văn hóa phi vật thể của dân tộc. Trung tâm không chỉ là nơi nghiên cứu, đào tạo, lưu giữ mà còn là nhịp cầu kết nối nghệ thuật truyền thống với hơi thở đương đại, đưa di sản quý báu đến gần hơn với công chúng. Sự ra đời của trung tâm tựa như một làn gió mới, tiếp thêm sinh lực để nghệ thuật truyền thống không chỉ trường tồn mà còn thăng hoa trong dòng chảy văn hóa thời đại.