Vĩnh Phúc không chỉ nổi tiếng với vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ mà còn là nơi bảo tồn những giá trị văn hóa tâm linh lâu đời. Các ngôi đền cổ như Đền Bà, Chùa Báo Ân và Đền Bắc Cung là những điểm đến lý tưởng cho những ai muốn tìm hiểu về di sản văn hóa sâu sắc và không khí linh thiêng của vùng đất này. Những ngôi đền này không chỉ là chứng nhân lịch sử mà còn là nơi lưu giữ những nghi lễ, truyền thống tín ngưỡng độc đáo, tạo nên một không gian yên bình và đậm đà bản sắc dân tộc.
Đền Bà
Đền Vị Thanh, hay còn gọi là đền Bà, tọa lạc trên một khu đất cao, rộng rãi và thoáng đãng, ngay bên bờ đầm Vạc, thuộc thôn Vị Thanh, xã Thanh Trù, thị xã Vĩnh Yên. Với khung cảnh đầm nước mênh mông phía trước, những tán cây cổ thụ soi bóng xuống mặt nước, cùng những mái ngói rêu phong ẩn hiện sau những góc đao cong, ngôi đền mang đến cảm giác về một bến nước, sân đình quen thuộc của làng quê Việt Nam. Giữa sự yên bình của những cánh đồng và làng mạc, đền Vị Thanh hiện lên uy nghiêm và cổ kính, như một chứng nhân lịch sử lâu đời.
Truyền thuyết kể rằng, vào thời kỳ Hai Bà Trưng khởi nghĩa chống quân Đông Hán xâm lược có một nữ tướng tài ba tên là Thanh Nương đã có công lớn trong việc phò tá Trưng Nữ Vương đánh giặc, cứu nước. Để ghi nhớ công ơn của bà, nhân dân đã lập đền thờ và gọi là đền Bà.
Đền Vị Thanh, hay còn được gọi là đền Bà, được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 19, thời nhà Nguyễn. Ngôi đền mang đậm phong cách kiến trúc truyền thống với bố cục hình chữ “Công”, bao gồm 3 tòa nhà chính: Tiền tế 5 gian, hai mái, bít đốc có cửa gỗ bức bàn, 1 gian ống và 3 gian hậu cung, có gác lửng làm khám thờ thần.
Kết cấu của đền được xây dựng theo kiểu 6 bộ vì chồng rường giá chiêng, với kỹ thuật mộng sàm tinh xảo, đạt đến trình độ cao. Toàn bộ đền được nâng đỡ bởi 32 cột gỗ lim vững chắc, chân cột được kê đá để chống ẩm và mối mọt. Bộ mái của tòa ống muống và hậu cung được thiết kế theo kiểu chồng diêm, lợp ngói mũi truyền thống, tạo nên sự uy nghi và bền vững qua thời gian.
Đền còn có 4 bộ long ngai và các bức hoành phi, câu đối chữ Hán, là những cổ vật quý, được gia cố công phu, trang trí cầu kỳ.
Đền Bà không chỉ là một công trình kiến trúc cổ kính mà còn là nơi lưu giữ những giá trị văn hóa phi vật thể độc đáo, tiêu biểu nhất là lễ hội tế trâu diễn ra vào ngày 13, 14 và 15 tháng 10 âm lịch hằng năm.
Từ đầu tháng 10 âm lịch, công tác chuẩn bị cho lễ hội đã được tiến hành chu đáo, từ việc chọn trâu tế, người nuôi trâu, làm chuồng trại cho trâu đến việc lập bàn thờ bộ hạ… Lễ hội chính thức bắt đầu vào buổi trưa ngày 13 tháng 10 âm lịch với các nghi thức trang trọng như lễ cáo, rước bàn thờ bộ hạ, dẫn trâu ra sân đình. Vào đêm 13 tháng 10 sẽ diễn ra lễ tế ở đình làng, sau đó trâu sẽ được rước ra đền để chuẩn bị cho nghi lễ chính vào ngày hôm sau.
Lễ hội tế trâu ở đền Bà không chỉ là một nét sinh hoạt tín ngưỡng đặc trưng của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước ở đồng bằng sông Hồng mà còn là dịp để mọi người thể hiện lòng biết ơn đối với các vị thần linh đã phù hộ cho mùa màng bội thu.
Đến với đền Bà vào dịp lễ hội, du khách không chỉ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp thanh bình, cổ kính của di tích mà còn được hòa mình vào không khí lễ hội tưng bừng, náo nhiệt, tham gia vào các hoạt động văn hóa truyền thống và tìm hiểu thêm về những giá trị văn hóa đặc sắc của vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Chùa Báo Ân
Ngôi chùa này thuộc phường Trưng Nhị, thị xã Phúc Yên, được xây dựng ở thế kỷ XII đời vua Lý Cao Tông (1176 – 1210). Đây là một trong số ít ngôi chùa thời Lý còn lại đến ngày nay. Chùa tọa trên một quả đồi cao, xưa gọi là rừng Cấm, cây cối xum xuê, bốn bề lộng gió, phong cảnh đẹp, tĩnh tại, đậm chất vi vu, u tịnh của chốn thiền tôn.
Theo văn bia và ngọc phả ghi lại, chùa có lịch sử từ rất lâu đời. Đến thế kỷ XII, Thái tử Sâm, con trai trưởng của vua Lý Cao Tông, đã cúng dường hơn một trăm mẫu ruộng và hai nghìn quan tiền để trùng tu chùa. Sau khi công việc hoàn thành, Thái tử tiếp tục bỏ ra bảy trăm quan tiền để tổ chức lễ cúng dường.
Và kết quả là như trong văn bia đã nói “cột son hoa thắm, màu ngọc tươi chiếu rọi non sông, cung điện huy hoàng, ánh nhật nguyệt chói ngời sáng láng, tượng Phật trang hoàng, tòa sen đĩnh đạc. Chuông to gác phượng, chẳng bao lâu tu tạo đã xong, khánh quý khám rồng, vẻ lộng lẫy uy nghiêm rõ rệt…”
Sau khi công việc trùng tu hoàn thành, võ tướng Nguyễn Công lại tiếp tục bỏ ra hơn một nghìn quan tiền để mua hơn một trăm mẫu ruộng cúng cho chùa để lấy hoa lợi dùng vào việc đèn nhang và các hoạt động của chùa.
Đến thế kỷ XIV đời vua Trần Anh Tông, chùa Báo Ân lại được công chúa Hưng Nương cấp nhiều tiền của tu bổ, tôn tạo. Để ghi nhớ công lao to lớn của công chúa, nhân dân ta đã lập ban thờ ngài ở chùa này.
Qua đó có thể nói rằng thời Lý – Trần, chùa Báo Ân được vua và các nhà quyền quý quan tâm tu bổ, xây dựng với quy mô rất to lớn, rất đẹp và là một trong những trung tâm phật giáo quan trọng ở nước ta.
Trải qua hơn một nghìn năm lịch sử với bao thăng trầm và biến cố, chùa Báo Ân ngày nay đã có nhiều thay đổi so với thuở ban đầu. Các công trình kiến trúc cổ như tiền đường, thiêu hương, thượng điện, nhà tổ, điện thờ công chúa Hưng Nương và điện thờ Mẫu vì xuống cấp, mục nát đã bị dỡ bỏ. Hệ thống chùa hiện tại được xây dựng lại với quy mô lớn hơn, sử dụng vật liệu bê tông cốt thép kiên cố, mái lợp ngói mũi. Mặc dù mang dáng dấp hiện đại, chùa Báo Ân vẫn giữ được những giá trị văn hóa và lịch sử quý báu, là điểm đến tâm linh quan trọng của người dân địa phương.
Hiện nay, chùa Báo Ân còn lưu giữ một số di vật cổ có giá trị lớn. Về tượng pháp, chùa có Tam Thế Phật, tượng A Di Đà, tượng Di Lặc, tượng Thích Ca sơ sinh, tượng Đức Ông và tượng Thánh Tăng. Về tượng thần, có tượng công chúa Hưng Nương trong tư thế ngồi thiền được đặt trong một khám thờ trang trí tinh xảo. Nhìn chung, tượng tại chùa Báo Ân không có kích thước lớn nhưng được đánh giá cao về tạo hình và kỹ thuật điêu khắc gỗ cổ truyền, đặc biệt là cách thể hiện đặc tả theo tích truyện của từng nhân vật trong hệ thống tượng chùa có từ thế kỷ 18.
Đặc biệt, chùa Báo Ân có một bia đá “Báo Ân thiền tự bi ký” (bài ký bia chùa Báo Ân). Bia khắc tháng 12 năm Trị Bình Long ứng thứ 5 (1209). Đây là tấm bia thời Lý còn lại duy nhất ở tỉnh Vĩnh Phúc. Bia cao 1m40, rộng 0m85, dày 0m14, đặt trên lưng rùa đá mai trơn, đầu thò dài, chân 4 móng choãi vẻ nặng nhọc. Bia khắc cả 2 mặt với 1498 chữ Hán, nét chữ sắc sảo theo lối chữ trân thời Lý rất đẹp. Nội dung bài ký do Nguỵ Tư Hiền soạn với lối văn biền ngẫu, đăng đối, súc tích.
Với giá trị về mỹ thuật trang trí điêu khắc trên đá thế kỷ XII và nội dung văn tự chữ Hán như kể trên, bia đá chùa Báo Ân là một báu vật quý hiếm trong kho tàng di sản văn hoá của dân tộc ta nói chung và của tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng.
Đền Bắc Cung
Đền Thính, hay còn được gọi là đền Bắc Cung, tọa lạc tại xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc, là một trong bốn ngôi đền lớn thuộc vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng, nơi thờ đức thánh Tản Viên Sơn Thánh. Bốn ngôi đền này bao gồm: Đền Tây Cung, đền Nam Cung, đền Đông Cung và đền Bắc Cung (tức đền Thính). Ba ngôi đền Tây Cung, Nam Cung và Đông Cung nằm bên kia sông Hồng, thuộc địa phận Sơn Tây. Cả bốn ngôi đền đều được người dân xây dựng và bảo tồn cẩn thận qua nhiều thế hệ.
Đền Thính, tọa lạc giữa những cánh đồng trù phú trên mảnh đất rộng 10.000m2, nép mình bên những con kênh uốn lượn, xung quanh là những làng mạc đông đúc và trù phú. Chỉ cách trung tâm huyện Yên Lạc khoảng 300m theo con đường trải nhựa, du khách đã có thể đến ngay khu đền.
Bất cứ ai từng đặt chân đến đây đều không thể quên được không gian tuyệt diệu, nơi đất trời như hòa quyện làm một. Vườn cây cối xanh tốt quanh năm với những tán cây cổ thụ xòe rộng như những bàn tay khổng lồ ôm lấy mái đền cổ kính, uy linh. Hương lúa, hương ngô thơm ngát quyện lẫn với khói hương trầm ngan ngát, tạo nên một không gian thanh bình, thư thái.
Tiếng chuông ngân nga trong trẻo vọng vào không trung huyền ảo, xoa dịu những muộn phiền của cuộc sống trần thế. Hai bên tả mạc, hữu mạc uy nghi, trầm mặc đứng đó, bao bọc lấy sân gạch rộng lớn, nhìn lên một công trình kiến trúc độc đáo, mang đậm dấu ấn thời gian.
Đền Thính, hay còn gọi là đền Bắc Cung, không chỉ là một ngôi đền cổ kính mà còn là nơi lưu giữ những giá trị văn hóa lịch sử sâu sắc. Theo truyền thuyết, đền được xây dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ, nơi đức thánh Tản Viên từng dừng chân nghỉ lại cùng quân sĩ trong một lần vi hành giúp dân khai khẩn đất hoang, trị thủy.
Thần phả ghi lại rằng, Đức thánh Tản (còn được gọi là Sơn Tinh) tên thật là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Cha mất sớm, ông sống cùng mẹ và hai anh em họ là Nguyễn Hiển và Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em cùng nhau vượt sông Đà sang vùng núi Ba Vì để khai hoang, tìm kế sinh nhai.
Tương truyền, Nguyễn Tuấn gặp gỡ bà chúa Thượng Ngàn và được nhận làm con nuôi, ban cho gậy thần cùng phép thuật để giúp đời. Sau khi chiến thắng Thủy Tinh và nên duyên cùng công chúa Ngọc Hoa, ông từ chối ngôi báu vua Hùng truyền lại, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai hoang, trị thủy, được dân chúng tôn kính. Khi dừng chân tại vùng Tam Hồng, ông dạy dân trồng lúa, đánh cá… Sau khi ông rời đi, dân làng tìm đến nơi ông nghỉ chân và thấy còn sót lại thính, từ đó đền có tên là đền Thính. Một tích khác lại kể rằng, khi cho quân nghỉ lại đây, Đức Thánh Tản đã dạy dân làm món thính, nên dân gian gọi đền như vậy.
Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá.
Lễ hội đền Thính diễn ra từ mùng 6 đến 20 tháng Giêng âm lịch hằng năm, bao gồm phần lễ tế, rước kiệu và nhiều trò chơi dân gian đặc sắc.
Sáng mùng 6 tháng Giêng, người dân nô nức kéo về đền Thính để tham dự lễ khai xuân. Công tác chuẩn bị cho nghi lễ này rất công phu và kỹ lưỡng.
Trước hết, Ban tổ chức sẽ tuyển chọn những người đủ tiêu chuẩn để tham gia vào đội tế lễ và đóng các vai trò quan trọng trong đám rước. Đội tế khai xuân thường có từ 8 đến 14 cụ ông, đảm nhiệm các nhiệm vụ như tế dâng lễ vật, tế ngày sinh và hóa của đức Thánh Tản.
Việc lựa chọn người chủ tế cũng rất quan trọng. Cụ ông nào đáp ứng được nhiều tiêu chí tốt nhất sẽ được chọn làm chủ tế. Ngoài ra, còn có 2 cụ làm Đông sướng và Tây sướng, 2 cụ bồi tế, 4 cụ tiến nước đèn, nhang, hoa, rượu,… 1 cụ đọc văn (đọc trúc) và 6 cụ chấp kích hai bên để canh gác và xua đuổi tà ma trong suốt quá trình tế lễ.
Lễ hội đền Thính trở nên náo nhiệt và vui tươi hơn khi các trò chơi dân gian được tổ chức. Từ những trận đấu vật sôi động của trai làng, đến những vòng đu quay rộn rã tiếng cười của các cô gái, hay những ván cờ tướng, cờ người đầy trí tuệ thu hút đông đảo người tham gia.
Không khí lễ hội càng thêm phần náo nhiệt với các hoạt động thể thao như bóng chuyền, cầu lông của thanh niên nam nữ, cùng những trò chơi dân gian truyền thống như đập niêu đất, ném vòng, kéo co… Các hàng quán cũng tấp nập chào mời khách thập phương, tạo nên một không gian lễ hội tưng bừng, rộn rã và tràn ngập niềm vui.
Mỗi độ xuân về, đền Thính lại rực rỡ cờ hoa, lòng người cũng hân hoan đón chào mùa lễ hội. Về Yên Lạc, bạn đừng quên ghé thăm ngôi đền cổ kính, yên bình bên dòng sông nhỏ để tận hưởng sự giao hòa tuyệt vời của đất trời và cảm nhận sự ấm áp, thư thái trong tâm hồn.